Quyền
tự do ngôn luận, tự do báo chí là quyền con người không thể bị tước
đoạt. Bởi vậy nó được bảo vệ không chỉ ở cấp độ đạo luật có giá trị pháp
lý cao nhất của quốc gia là Hiến pháp mà còn được bảo vệ ở Công ước
quốc tế về các quyền dân sự và chính trị do Liên Hiệp Quốc ban hành.
Điều 69 Hiến pháp Việt Nam 1992 qui định: “công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí…”
Điều 4 luật Báo chí cụ thể hóa quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận như sau :
“1- Được thông tin qua báo chí về mọi mặt của tình hình đất nước và thế giới ;
2-
Tiếp xúc, cung cấp thông tin cho cơ quan báo chí và nhà báo; gửi tin,
bài, ảnh và tác phẩm khác cho báo chí mà không chịu sự kiểm duyệt của tổ
chức, cá nhân nào và chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung thông
tin ;
3- Phát biểu ý kiến về tình hình đất nước và thế giới ;
4- Tham gia ý kiến xây dựng và thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước ;
5-
Góp ý kiến, phê bình, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo trên báo chí đối với
các tổ chức của Đảng, cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội và thành viên
của các tổ chức đó.”
Điều 19 Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị:
“Mọi người đều có quyền tự do ngôn luận. Quyền này bao gồm cả quyền tự
do tìm kiếm, nhận và truyền đạt mọi loại tin tức, ý kiến, không phân
biệt ranh giới, hình thức tuyên truyền miệng, hoặc bằng bản viết, in,
hoặc bằng hình thức nghệ thuật hoặc thông qua mọi phương tiện đại chúng
khác tùy theo sự lựa chọn của họ.”
Theo các qui định của Hiến
pháp, luật Báo chí và Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị.
Chúng ta đều nhận thức rằng quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí là
điều kiện không thể thiếu cho sự phát triển đầy đủ của các quyền con
người. Chúng cần thiết cho bất kỳ xã hội nào. Chúng cần thiết cho tất cả
các xã hội tự do và dân chủ. Hai quyền này liên quan chặt chẽ với nhau,
chúng cung cấp phương tiện cho việc trao đổi và phát triển ý kiến.
Tự
do ngôn luận, tự do báo chí là điều kiện cần thiết cho việc thực hiện
các nguyên tắc minh bạch, cần thiết cho việc thúc đẩy và bảo vệ nhân
quyền.
Quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí được đề cập đến mọi lĩnh
vực của đời sống xã hội, bao gồm cả thể chế chính trị, pháp luật, văn
học(sáng tác thơ, ca,…), nghệ thuật,… Không có sự hạn chế nào. Nhà nước
không được áp đặt hay ép buộc công dân chỉ được bày tỏ quan điểm, chính
kiến theo một chiều. Công dân có quyền giữ quan điểm chính trị của mình
mà không bị can thiệp. Họ có quyền tự do lựa chọn thay đổi quan điểm bất
cứ khi nào và vì bất cứ lý do gì.Quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí
không bị giàng buộc bởi đường biên giới quốc gia.
Công dân được sử
dụng mọi phương tiện truyền thông như báo giấy, báo điện tử, radio,
truyền hình, internet,… để thực hiện quyền tự do ngôn luận, tự do báo
chí của mình. Một nền báo chí hay truyền thông tự do, không bị kiểm
duyệt hay bị cản trở là cần thiết cho bất kỳ xã hội nào. Đó là trụ cột
của một xã hội dân chủ. Nhà nước có trách nhiệm bảo đảm cho mọi công dân
có thể tiếp cận và sử dụng các phương tiện đó.
Công dân sử dụng
quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí để yêu cầu, kiến nghị việc sửa đổi
hay bãi bỏ bất kỳ điều nào trong Hiến pháp cũng như trong các bộ luật.
Không có điều nào trong Hiến pháp là điều cấm mà công dân không có quyền
kiến nghị sửa đổi hoặc hủy bỏ.
Công dân sử dụng quyền tư do ngôn
luận, tự do báo chí để bày tỏ mong muốn thay đổi, cải cách hệ thống
chính trị nhằm đáp ứng các quyền tự do dân chủ cũng như lợi ích của nhân
dân. Công dân có quyền bày tỏ ước muốn xây dựng nền chính trị đa
nguyên, đa đảng.
Do đó, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí đã được
qui định trong Hiến pháp, luật và Công ước quốc tế để bảo đảm rằng chính
quyền phải tôn trọng và không được xâm phạm đến quyền của công dân.
Và trách nhiệm của chính quyền là:
Chính
quyền cũng như cả hệ thống chính trị từ trung ương đến các địa có nghĩa
vụ tôn trọng quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí của công dân. Cũng
như có trách nhiệm bảo vệ mọi công dân khi họ thực hiện quyền tự do ngôn
luận, tự do báo chí.
Trong bình luận chung số 34 về điều 19 Công ước
quốc tế về các quyền dân sự và chính trị của Hội đồng nhân quyền LHQ
trong phiên họp 102 từ ngày 11 đến ngày 29 tháng 7 năm 2011. Mục số 7 và
8 nêu rõ:
“7. Nghĩa vụ tôn trọng tự do quan điểm và tự do biểu
đạt là nghĩa vụ bắt buộc đối với mọi Quốc gia thành viên như một chỉnh
thể. Tất cả mọi nhánh quyền lực nhà nước (hành pháp, lập pháp và tư
pháp) và các cơ quan công quyền và tổ chức của chính phủ, dù ở cấp độ
nào – quốc gia, khu vực hay địa phương – đều có trách nhiệm thực hiện
nghĩa vụ của Quốc gia thành viên. Các trách nhiệm đó cũng có thể phát
sinh với một Quốc gia thành viên trong một số trường hợp nhất định liên
quan đến các chủ thể có tư cách bán nhà nước. Nghĩa vụ này cũng yêu cầu
các Quốc gia thành viên phải đảm bảo rằng mọi người được bảo vệ khỏi bất
kỳ hành vi nào của cá nhân hay pháp nhân thuộc khu vực tư có thể ảnh
hưởng xấu đến việc thụ hưởng các quyền tự do quan điểm và tự do biểu đạt
đến mức độ những quyền theo Công ước này dễ bị ảnh hưởng bởi việc áp
dụng của các cá nhân hoặc pháp nhân thuộc khu vực tư.
8. Các
Quốc gia thành viên phải đảm bảo rằng các quyền trong Điều 19 của Công
ước có hiệu lực trong hệ thống nội luật của quốc gia, và có tinh thần
nhất quán với những chỉ dẫn của Ủy ban trong Bình luận chung số 31 về
bản chất của các nghĩa vụ pháp lý chung đối với Nước thành viên Công
ước….”
Những trở ngại khi công dân Việt Nam thực hiện quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí.
Trong
những năm vừa qua, đã có nhiều công dân khi sử dụng quyền tự do ngôn
luận, tự do báo chí để bày tỏ quan điểm chính trị đối lập, phê phán
những sai lầm, yếu kém, tham nhũng của đảng Cộng sản. Một số nghệ sĩ như
Việt Khang, Trần Vũ Anh Bình chỉ sáng tác những ca khúc bày tỏ những
trăn trở với vận mệnh đất nước. Nhưng tất cả họ đã bị truy tố và xét xử
với mức án nặng nề theo điều 88 bộ luật Hình sự. Ngoài gia hàng trăm
người khác thường xuyên bị sách nhiễu.
Do vậy điều 88 bộ luật Hình sự
là trở ngại cho công dân khi họ thực hiện quyền tự do ngôn luận, tự do
báo chí. Các hành vi chống nhà nước của điều 88 được hệ thống các cơ
quan tư pháp của Việt Nam hiểu, giải thích và áp dụng như sau: Hành vi
tuyên truyền nhằm làm giảm lòng tin với đảng CS, với chế độ XHCN, phá
hoại sự thống nhất về chính trị, tư tưởng trong xã hội, xâm phạm sự vững
mạnh của chính quyền nhân dân và chế độ XHCN. Hành vi xuyên tạc, đả
kích các chủ trương, chính sách của đảng CS và nhà nước trong các lĩnh
vực quản lý kinh tế, quản lý xã hội, quản lý cán bộ, công chức nhà
nước,… Hành vi lợi dụng những tiêu cực, khoét vào những khó khăn trước
mắt, thổi phồng những khuyết điểm trong quản lý kinh tế, quản lý xã hội,
làm cho người khác không tin vào chế độ, và sự lãnh đạo của đảng CS, sự
quản lý điều hành của bộ máy nhà nước.
Khi chúng ta đối chiếu nội
hàm của điều 88 bộ luật Hình sự với điều 69 Hiến pháp, điều 4 luật Báo
chí, điều 19 Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị. Thì
chúng ta thấy rằng chính quyền cũng như các cơ quan tư pháp của Việt Nam
đã diễn giải điều 88 bộ luật Hình sự nhằm bóp chết quyền tự do ngôn
luận, tự do báo chí của công dân. Do vậy điều 88 bộ luật hình sự là VI
HIẾN, nó chống lại điều 69 Hiến pháp, điều 4 luật Báo chí và Điều 19
Công ước quốc tế về các quyền dân sư và chính trị.
Lòng tin của nhân
dân với đảng Cộng sản phụ thuộc vào năng lực lãnh đạo, phẩm chất đạo đức
của mỗi đảng viên và cả tập thể đảng Cộng sản. Còn lòng tin của nhân
với chế độ XHCN phụ thuộc vào việc nó có mang lại quyền bình đẳng và
quyền làm chủ đất nước của nhân dân hay không. Đảng Cộng sản không thể
áp đặt tuyệt đối tư tưởng chính trị của mình lên toàn bộ xã hội. Còn các
đường lối, chủ trương, chính sách của đảng Cộng sản, của chính phủ
trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội,…có thể đem lại lợi ích cho một bộ
phận người dân này, nhưng với những người khác thì ngược lại. Những
người được hưởng lợi thì họ ủng hộ, còn những người mất lợi ích thì họ
có quyền phản đối. Những tiêu cực, sai lầm, khuyết điểm của chính quyền
thì có nhưng người đánh giá không đáng kể, còn những người khác họ có
quyền đánh giá là nghiêm trọng, tùy theo cách nhìn của mỗi người. Hoặc
chế độ XHCN được nhiều người dân cho là phù hợp, và họ ủng hộ. Nhưng với
rất nhiều người khác họ cho là không phù hợp và họ có quyền tự do phê
phán, đả kích, thậm chí họ có quyền đòi hỏi thay đổi. Cùng một sự việc,
một hiện tượng, nhưng mỗi người dân có những cách nhìn, quan điểm khác
nhau. Nhóm này đồng ý, ủng hộ. Nhóm khác không đồng ý và phản đối.
Và
nếu tất cả mọi công dân đều sử dụng quyền tự do ngôn luận, tự do báo
chí để ca ngợi và bày tỏ sự ủng hộ đối với chính phủ, đảng Cộng sản và
chế độ XHCN. Chắc chắn chính quyền không bao giờ trừng phạt họ. Và quyền
tự do ngôn luận, tự do báo chí không cần thiết được bảo vệ bởi Hiến
pháp, luật và Công ước quốc tế. Nhưng ở Việt Nam cũng như trên thế giới,
công dân thường sử dụng quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí để bày tỏ
sự bất bình, sự phản đối, chỉ trích hay phê phán những yếu kém, sai lầm,
khuyết điểm của chính phủ, chế độ XHCN. Trách nhiệm của chính quyền là
bảo vệ và tôn trọng quyền tự do ngôn luận của cả nhóm công dân ủng hộ và
nhóm công dân phản đối.
Làm thế nào để quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí của công dân được tôn trọng và bảo vệ?
Nếu
đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam thực sự tôn trọng quyền tự do ngôn
luận, tự do báo chí của công dân. Quốc hội Việt Nam phải tiến hành hủy
bỏ điều 88 bộ luật Hình sự, bởi đây là một điều luật vi hiến. Trong khi
việc này chưa sảy ra thì chính phủ phải trả tự do cho tất cả những người
đang bị giam giữ, bị cầm tù theo điều 88 bộ luật Hình sự, bãi bỏ quản
chế với những người đã hết án tù. Chấm dứt sách nhiễu với những công dân
đang thực hiện quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí.
Hà nội, ngày 22 tháng 10 năm 2012
Luật sư Nguyễn Văn Đài
No comments:
Post a Comment