Vualambao
Quanlambao
Trong những chiến công hiển hách của Tổ Tiên, phải kể đến những cuộc di tản buồn từ khi nước Tàu bành trướng, lãnh thổ Bách Việt bị xâm lăng.
Các nhà nghiên cứu phương Tây khẳng định hàng ngàn năm trước, người Việt từng xuyên dương tị nạn. Họ sang Mỹ khoảng 3.000 năm trước CN. Nước ngoài đã tìm thấy khá nhiều chi tiết liên hệ đến văn minh Đông Sơn. Người Việt trốn chạy người Tàu xâm lược, cai trị dân tàn ác, bằng thuyền vượt biển, đã mang ảnh hưởng văn hóa Việt, văn hóa Á Đông đi khắp nơi. Cuộc di tản chỉ ngưng lại vào thế kỷ X, khi người Việt Nam đạt được quốc gia độc lập ở vùng châu thổ sông Hồng, sông Mã.
Những thiên niên kỷ trước CN, người Việt theo nghề hàng hải đã giao thương nhiều nơi trên biển.
- Đường biển đi Đông Nam Á và Tây Bá Lợi Á.
- Đường biển tới Úc châu và Tân Tây Lan
- Hải trình đi Hồng Hải và Địa Trung Hải
- Đường biển tới Phi Châu
- Đường biển tới Mỹ Châu
Người Tây phương kính phục và ngưỡng mộ tài đi biển và lòng quả cảm phi thường của người Việt trước biển khơi sóng dữ.
Nhà hàng hải George Windsor Eart viết trong sổ nhật ký của ông trên đường dẫn lộ một chiếc thương thuyền đến Singapore vào đầu thế kỷ XVIII:
“Bão táp thật dữ dội ngoài biển khơi, thiếu chút nữa thì thương thuyền của chúng tôi bị gẫy đổ cả cột buồm. Thời tiết đã tiếp tục xấu như thế trong nhiều ngày. Vậy mà khi đang thận trọng dẫn tàu vào eo biển, chúng tôi chợt nhận ra sáu chiếc thuyền nhỏ của người Việt Nam đang giương hết mọi cánh buồm, cứ thản nhiên như không, tiến thẳng tới trước. Mấy người mại bản Trung Hoa đi trên tàu chúng tôi, đứng sững sờ ngắm nhìn những dàn buồm no gió một hồi.
Tài ba của họ không thua kém bất cứ một thủy thủ đoàn hạng nhất nào của toàn khu vực Âu Châu. Đoàn thuyền bé tí teo đó không có một chiếc nào vượt quá 50 tấn. Vậy mà những người đi biển này có thể đè bẹp cả sóng gió biển Đông vào giữa mùa bão tố”.
Ông còn viết thêm về tâm hồn tính cách những người thủy thủ Việt Nam này:
“Thật thú vị khi được quen biết với những người Việt Nam này. Tính tình họ năng động, ngôn từ lại hoạt bát. Khi đến buôn bán ởSingapore, họ đã phải khéo léo trong sự cạnh tranh. Hoàn cảnh sinh hoạt của họ thật sự khó khăn vì chính sách bế quan tỏa cảng của triều đình Việt Nam. Họ rất can đảm khi xuất dương. Thuyền của họ lại không trang bị vũ khí và như thế là miếng mồi ngon cho hải tặc”.
Thuyền trưởng John White là một trong những nhà hàng hải Hoa Kỳ đầu tiên đến Việt Nam vào năm 1802. Ông thăm thủy xưởng hải quân Sài Gòn, nhận xét người Việt Nam là những nhà kiến trúc tàu bè có khả năng kỹ thuật cao nhất, hoàn tất công việc thật chính xác. Ông rất ngạc nhiên là những hải xưởng Việt Nam thời đó có đầy đủ vật liệu cho kiến trúc đến cả loại tàu lớn nhất. Ông hiểu rằng rừng Việt Nam có những loại gỗ dùng đóng tàu thuyền tốt nhất thế giới.
Cánh Buồm Ngược Gió
Càng hiểu sâu dòng dõi nguyên thủy của cộng đồng Bách Việt, chúng ta càng thấm thía rằng Tổ Tiên ta đã tạo dựng một nền văn minh kỳ diệu, phong phú của sông biển, núi đồi, đồng ruộng. Không phải dân tộc nào cũng có được. Nền văn minh đó đã bị đánh cắp, xuyên tạc và lãng quên.
Để giữ được bản sắc của mình, Tổ Tiên ta đã phải hành trình ngược sóng, ngược gió, ngược về phương Mặt Trời, tránh xa phương Bắc.
Con cháu Việt tộc ngày nay, tiếp tục hát vang bài ca ấy:
Cánh Buồm Ngược Gió
Chim Lạc ngược chiều kim đồng hồ
Cánh buồm cổ, thuyền nhân ngược gió
Hải hành mãnh liệt khắp thế gian
Biển Đông nôi thủy sinh Bách Việt
Dắt cháu con hướng phía Mặt Trời
Vạn lý xuyên dương đè bão tố
Bóng hải quân lừng lẫy thần kỳ
Biển lùi, biển tiến… văn hóa Nước
Sông Hồng, sông Mã vui chài lưới
Minh triết cuộc hành trình lúa rau
Kinh Dịch, Trống Đồng mật mã truyền.
(Mai Thục)
Và mãi mãi muôn sau, con cháu Rồng Tiên nắm tay nhau, nguyện thề non nước:
Thề Non Nước
Nước non nặng một lời thề
Nước đi, đi mãi không về cùng non
Nhớ lời nguyện nước thề non
Nước đi chưa lại non còn đứng không
Non cao những ngóng cùng trông
Suối khô dòng lệ chờ mong tháng ngày
Xương mai một nắm hao gầy
Tóc mây một mái đã dày tuyết sương
Trời Tây ngả bóng tà dương
Càng phơi vẻ ngọc nét vàng phôi pha
Non cao tuổi vẫn chưa già
Non thời nhớ nước, nước mà quên non
Dù cho sông cạn đá mòn
Còn non còn nước hãy còn thề xưa
Non cao đã biết hay chưa
Nước đi ra bể lại mưa về nguồn
Nước non hội ngộ còn luôn
Bảo cho non chớ có buồn làm chi
Nước kia dù hãy còn đi
Ngàn dâu xanh tốt non thì cứ vui
Nghìn năm giao ước kết đôi
Non non nước nước chưa nguôi lời thề.
(Tản Đà)
Hồ Gươm 2011- 2012
Mai Thục
NHỮNG BÀI VIẾT MỚI NHẤT CỦA QLB & CÁC VỤ ÁN
Quanlambao
Trong những chiến công hiển hách của Tổ Tiên, phải kể đến những cuộc di tản buồn từ khi nước Tàu bành trướng, lãnh thổ Bách Việt bị xâm lăng.
Các nhà nghiên cứu phương Tây khẳng định hàng ngàn năm trước, người Việt từng xuyên dương tị nạn. Họ sang Mỹ khoảng 3.000 năm trước CN. Nước ngoài đã tìm thấy khá nhiều chi tiết liên hệ đến văn minh Đông Sơn. Người Việt trốn chạy người Tàu xâm lược, cai trị dân tàn ác, bằng thuyền vượt biển, đã mang ảnh hưởng văn hóa Việt, văn hóa Á Đông đi khắp nơi. Cuộc di tản chỉ ngưng lại vào thế kỷ X, khi người Việt Nam đạt được quốc gia độc lập ở vùng châu thổ sông Hồng, sông Mã.
Những thiên niên kỷ trước CN, người Việt theo nghề hàng hải đã giao thương nhiều nơi trên biển.
- Đường biển đi Đông Nam Á và Tây Bá Lợi Á.
- Đường biển tới Úc châu và Tân Tây Lan
- Hải trình đi Hồng Hải và Địa Trung Hải
- Đường biển tới Phi Châu
- Đường biển tới Mỹ Châu
Người Tây phương kính phục và ngưỡng mộ tài đi biển và lòng quả cảm phi thường của người Việt trước biển khơi sóng dữ.
Nhà hàng hải George Windsor Eart viết trong sổ nhật ký của ông trên đường dẫn lộ một chiếc thương thuyền đến Singapore vào đầu thế kỷ XVIII:
“Bão táp thật dữ dội ngoài biển khơi, thiếu chút nữa thì thương thuyền của chúng tôi bị gẫy đổ cả cột buồm. Thời tiết đã tiếp tục xấu như thế trong nhiều ngày. Vậy mà khi đang thận trọng dẫn tàu vào eo biển, chúng tôi chợt nhận ra sáu chiếc thuyền nhỏ của người Việt Nam đang giương hết mọi cánh buồm, cứ thản nhiên như không, tiến thẳng tới trước. Mấy người mại bản Trung Hoa đi trên tàu chúng tôi, đứng sững sờ ngắm nhìn những dàn buồm no gió một hồi.
Tài ba của họ không thua kém bất cứ một thủy thủ đoàn hạng nhất nào của toàn khu vực Âu Châu. Đoàn thuyền bé tí teo đó không có một chiếc nào vượt quá 50 tấn. Vậy mà những người đi biển này có thể đè bẹp cả sóng gió biển Đông vào giữa mùa bão tố”.
Ông còn viết thêm về tâm hồn tính cách những người thủy thủ Việt Nam này:
“Thật thú vị khi được quen biết với những người Việt Nam này. Tính tình họ năng động, ngôn từ lại hoạt bát. Khi đến buôn bán ởSingapore, họ đã phải khéo léo trong sự cạnh tranh. Hoàn cảnh sinh hoạt của họ thật sự khó khăn vì chính sách bế quan tỏa cảng của triều đình Việt Nam. Họ rất can đảm khi xuất dương. Thuyền của họ lại không trang bị vũ khí và như thế là miếng mồi ngon cho hải tặc”.
Thuyền trưởng John White là một trong những nhà hàng hải Hoa Kỳ đầu tiên đến Việt Nam vào năm 1802. Ông thăm thủy xưởng hải quân Sài Gòn, nhận xét người Việt Nam là những nhà kiến trúc tàu bè có khả năng kỹ thuật cao nhất, hoàn tất công việc thật chính xác. Ông rất ngạc nhiên là những hải xưởng Việt Nam thời đó có đầy đủ vật liệu cho kiến trúc đến cả loại tàu lớn nhất. Ông hiểu rằng rừng Việt Nam có những loại gỗ dùng đóng tàu thuyền tốt nhất thế giới.
Cánh Buồm Ngược Gió
Càng hiểu sâu dòng dõi nguyên thủy của cộng đồng Bách Việt, chúng ta càng thấm thía rằng Tổ Tiên ta đã tạo dựng một nền văn minh kỳ diệu, phong phú của sông biển, núi đồi, đồng ruộng. Không phải dân tộc nào cũng có được. Nền văn minh đó đã bị đánh cắp, xuyên tạc và lãng quên.
Để giữ được bản sắc của mình, Tổ Tiên ta đã phải hành trình ngược sóng, ngược gió, ngược về phương Mặt Trời, tránh xa phương Bắc.
Con cháu Việt tộc ngày nay, tiếp tục hát vang bài ca ấy:
Cánh Buồm Ngược Gió
Chim Lạc ngược chiều kim đồng hồ
Cánh buồm cổ, thuyền nhân ngược gió
Hải hành mãnh liệt khắp thế gian
Biển Đông nôi thủy sinh Bách Việt
Dắt cháu con hướng phía Mặt Trời
Vạn lý xuyên dương đè bão tố
Bóng hải quân lừng lẫy thần kỳ
Biển lùi, biển tiến… văn hóa Nước
Sông Hồng, sông Mã vui chài lưới
Minh triết cuộc hành trình lúa rau
Kinh Dịch, Trống Đồng mật mã truyền.
(Mai Thục)
Và mãi mãi muôn sau, con cháu Rồng Tiên nắm tay nhau, nguyện thề non nước:
Thề Non Nước
Nước non nặng một lời thề
Nước đi, đi mãi không về cùng non
Nhớ lời nguyện nước thề non
Nước đi chưa lại non còn đứng không
Non cao những ngóng cùng trông
Suối khô dòng lệ chờ mong tháng ngày
Xương mai một nắm hao gầy
Tóc mây một mái đã dày tuyết sương
Trời Tây ngả bóng tà dương
Càng phơi vẻ ngọc nét vàng phôi pha
Non cao tuổi vẫn chưa già
Non thời nhớ nước, nước mà quên non
Dù cho sông cạn đá mòn
Còn non còn nước hãy còn thề xưa
Non cao đã biết hay chưa
Nước đi ra bể lại mưa về nguồn
Nước non hội ngộ còn luôn
Bảo cho non chớ có buồn làm chi
Nước kia dù hãy còn đi
Ngàn dâu xanh tốt non thì cứ vui
Nghìn năm giao ước kết đôi
Non non nước nước chưa nguôi lời thề.
(Tản Đà)
Hồ Gươm 2011- 2012
Mai Thục
NHỮNG BÀI VIẾT MỚI NHẤT CỦA QLB & CÁC VỤ ÁN
1.HOT Links vềThủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng 2.HOT Links vềTướng Nguyễn Văn Hưởng 3.HOT Links vềThống đốc Nguyễn Văn Bình 4. HOT Links Nhómtội phạm Việt Nam 5. HOT Links vềChủ tịch Quốc Hội Nguyễn Sinh Hùng 6.Hot Links vềTổng cục 2 7.Hot Links vềNội các Chính Phủ 8.Hot Links vềchủ quyền 9.Hot Links vềPhạm Chí Dũng 10.HOT Links vềVinaline 11.Hot LinksVikileaks 12.Hồ sơ Beo HồThị Thu Hồng 13.Hồ sơ MafiaTàu tại VN 14.Dân chủ& Đảng phái 15.Giớpchóp bu Hà Nội chống tham nhũng? 16. Các vụ án Ngân hàng khác 17. Đấu tranh cho nền dân chủ 18. Thơ văn 19. Hồ sơ các nạn nhân đại gia 20. Giáo dục 21. Gián điệp
HỒ SƠ BẮC Á& SỮA TH TRUE MILK HỒ SƠ LIÊN QUANMAFIA HỒ SƠ MASAN TECHCOMBANK HỒ SƠ VỀ NH PHƯƠNG NAM & TRẦM BÊ NGUYỄN ĐỨC KIÊN - EXIMBANK
No comments:
Post a Comment